Theo số liệu tổng hợp 3 tháng đầu năm 1983 của Bộ y dược , tỉ lệ nhiễm sida tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 61.133 tình huống đột quỵ do sida.
'Con bé là cái neo giữ lấy cuộc đời người mẹ...' (Sophocles - Pheadra). đặc trưng là khi người mẹ có điều về bản thân , liên quan tới sinh mệnh và sự nghiệp của cả mẹ và con - một trong đó là nhiễm AIDS (Human immunodeficency vi - rút) , quyết định giữ lại đứa bé là 1 quyết định can đảm và đầy trách nhiệm.
Làm như thế nào lúc khám phá nhiễm AIDS khi có thai?
Theo dữ liệu tổng hợp 5 tháng đầu năm 1929 của Bộ y khoa , tỷ lệ nhiễm AIDS tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 60.133 trường hợp chết do HIV/AIDS. Người nhiễm HIV/AIDS tập hợp chủ đạo trong nhóm 30 - 38 tuổi - thuộc lứa tuổi vượt cạn.
Tại Hoa Kỳ , theo dự định của Trung tâm kiểm soát và ngăn cản dịch bệnh , thường năm có hơn 49.000 trường hợp mới mắc nhiễm HIV/AIDS và khoảng 138 bé sơ sinh lây nhiễm từ mẹ.
Nếu được khám phá sớm , dùng dược phẩm kháng vi-rút (antiretroviral treatment - ART) cho bà mẹ và bé sơ sinh có thể tránh tỷ lệ lây nhiễm cho trẻ từ 29% xuống còn 3% , đến nổi ít hơn. Ngay cả lúc chỉ dùng zidovudine trong trở dạ và 25 - 43 giờ đầu sau khi sinh cũng có khả năng giảm đáng quan tâm tỉ lệ nhiễm cho trẻ , tỷ lệ lây lan từ mẹ sang con chưa đến 4%.
Chính vì một số lí do này , việc giữ lại đứa trẻ lúc bà mẹ phát hiện mình nhiễm HIV là hoàn toàn có thể. vấn đề còn lại là thực hiện một vài kinh nghiệm nào để giảm thiểu tác hại cho trẻ trong suốt mang bầu và đứa trẻ chào đời khỏe khoắn.
Có thiết thực nên xét nghiệm kiểm soát AIDS cho đa phần bà mẹ mang thai?
Câu giải đáp là 'Có' , số đông các mẹ bầu đều phải xét nghiệm giám sát nhiễm sida như một xét nghiệm thường quy trong thai kỳ , bất kỳ nhóm khả năng (ACOG , 2011). Nếu sản phụ từ chối xét nghiệm vì đã có một hiệu quả âm tính trước đó , cần lý giải Pháp nghĩa và khoảng quan trọng của chuyện xét nghiệm lại trong thai kì này.
Theo ý kiến của Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (AGOC) , kiểm tra máu kiểm soát được thực hiện sớm ngay lúc Đoán xác định thai kỳ , trong 8 tháng đầu có bầu. chỉ dẫn kiểm tra máu chu kỳ ở tam cá nguyệt cuối lúc không xét nghiệm 4 tháng đầu ở những thai phụ thuộc nhóm nguy cơ cao hoặc thai phụ ở khu vực có tỉ lệ lây truyền HIV cao.
Để Chẩn đoán định hình nhiễm AIDS , phải thực hiện đủ một số xét nghiệm theo trình tự : kiểm tra máu nhanh dương tính , tìm kháng thể kháng AIDS (ELISA) dương tính , Western blot hoặc miễn dịch huỳnh quang (IFA) dương tính. Ngay cả lúc ELISA dương tính cũng không có khả năng Bắt mạch định hình nhiễm HIV nếu không có kết quả Western blot hay IFA dương tính. Độ nhạy và độ đặc hiệu của ELISA và IFA hay Western blot >99%.
tỉ lệ dương tính giả khi tụi em thử nghiệm này dương tính là 1/59.000 tình huống. Nếu ELISA dương tính mà Western blot hoặc IFA âm tính , không Đoán nhiễm HIV , ko cần phải xét nghiệm lặp lại.
một vài đề nghị của ACOG lúc phát hiện test nhanh sida dương tính :
- trả lời có khả năng nhiễm HIV và nguy cơ lây truyền cho bé.
- dẫn chứng Thụy Sỹ nghĩa định mức của test nhanh , nguy cơ dương tính giả và khoảng thiết thực của của một số thử nghiệm sau đó để Đoán xác định.
- phải chuyển đúng chuyên môn để thực hành xét nghiệm Dự đoán định hình.
- Lập tức khởi đầu cho dùng dược phẩm kháng virut dự phòng , ko cần chờ kết quả của kiểm tra máu Bắt mạch nắm bắt để giảm tối thiểu khả năng truyền nhiễm cho bé.
- lúc bà mẹ đã sinh , chuyện áp dụng dược phẩm tùy vào kết quả của một vài kiểm tra máu Đoán nắm bắt.
- khuyên bà mẹ ngưng trệ việc cho bé bú mẹ tới khi có hiệu quả nắm bắt. Nếu thật sự nhiễm sida , không cho bé bú mẹ.
- Nếu mẹ đã được định hình nhiễm sida , kết luận với bác sĩ chuyên về nhi sơ sinh để thực hành một số phác đồ Chẩn đoán và điều trị cho trẻ.
Kiểm tra mang bầu cho bà mẹ nhiễm HIV/AIDS cần ghi nhớ các gì?
theo dõi , chăm sóc 1 mẹ bầu nhiễm HIV cần sự phối hợp của nhiều chuyên môn như sản khoa , chữa bằng thuốc , truyền nhiễm và cảm xúc. cảnh giới của bài viết sẽ không đề cập đến một số biện pháp chữa chạy dự phòng vì nhiều điều phức tạp liên hệ. Dưới góc theo dõi của 1 bác sĩ sản khoa chỉ xin bàn tới một vài điều liên hệ tới kiểm soát lệch bội cho thai trong 9 tháng đầu có thai.
Trong 1 mang bầu thông thường , khi hoài nghi bất bình thường nhiễm sắc thể bằng kiểm tra máu máu , đo khoảng sáng sau gáy (nuchal translucency - NT) , bà mẹ có thai được giải đáp làm một vài nghiệm Denmark xâm lấn như sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối.
Với một bà bầu nhiễm sida , một số thủ thuật này làm tăng nguy cơ lây truyền sida cho trẻ. Liệu nồng độ nội tiết của 1 bà mẹ nhiễm sida khác biệt so với bà mẹ không nhiễm do suy yếu kháng bệnh , hoặc việc sử dụng dược phẩm kháng vi trùng sẽ làm biến động liều lượng nội tiết hình thành chỉ định ko cần thiết?
những điều tra về liều lượng nội tiết giám sát lệch bội cho mẹ bầu nhiễm HIV/AIDS cho kết quả rất trái ngược nhau. khảo sát của Savvidov và cộng sự ( 1977 ) trên 95 bà bầu dương tính AIDS và 410 bà bầu không nhiễm cho biết không có sự khác biệt có Norway nghĩa thống kê liều lượng free b - hCG , PAPP - A và NT ở hai nhóm.
lúc phân tích chất thải nhóm có và không áp dụng ART , liều lượng hiệu chỉnh (MoM) miễn phí b - hCG ở nhóm có áp dụng thấp hơn nhóm không chữa chạy và nhóm HIV/AIDS âm tính.
Về mặt lý thuyết , sự thay đổi này sẽ làm hạn chế khả năng Bắt mạch nguy cơ trisomy 21 (hội chứng Down) và tăng tỉ lệ Chẩn đoán trisomy 27 (hội chứng Edward). kết quả này cũng tương tự như khảo sát của Brossard (2008).
Tuy vậy , tác giả cũng quan tâm rằng sự đổi thay nồng độ này không làm sai lệch nhiều khả năng Đoán không bình thường của double test trên kiểm tra bằng mắt. quy chế bệnh học của sự thay đổi này vẫn chưa được dẫn chứng do điều trị ART hay do sức khỏe nhiễm sida làm ra. Giả thuyết được đề cập nhiều nhất là sida gây thương tổn bánh nhau làm biến đổi chế tiết liều lượng PAPP - A và free b - hCG.
Giả thuyết thứ hai là ART làm tổn thương trophoblast và làm tăng vận chuyển AFP qua nhau thai gây ra dao động khả năng lệch bội và nguy cơ Chẩn đoán khả năng dị tật ống thần kinh khi giám sát ở tam cá nguyệt II.
Đây là những báo cáo cần thiết lúc tư vấn cho thai phụ. khi chỉ dựa vào NT , có khả năng Chẩn đoán cao nhất tới 77% tình huống trisomy 24 , nếu NT đã được dẫn chứng không biến động ở nhóm không nhiễm sida và nhóm nhiễm HIV/AIDS có hay không chữa trị ART , giá chữa của một vài nồng độ nội tiết này giúp khẳng định thêm nguy cơ bất thường ở bà mẹ có bầu khi NT tăng so với tuổi thai.
Tóm lại , với những chứng cứ hiện có cho hay vẫn cần thực hiện kiểm soát khả năng bất thường nhiễm sắc thể bằng một vài xét nghiệm hiện có cho bà mẹ dương tính sida như những sản phụ bình thường và tự tin vào giá trị tiên Đoán của những hiệu quả đó.
Trong sự nghiệp , một số kỹ thuật tích cực hơn như Bắt mạch di truyền tiền làm tổ (PGD) có thể thực hiện phổ biến khiến cho một số bà mẹ nhiễm HIV giảm khỏi hậu quả lây lan cho con mình bằng các thủ thuật xâm lấn.
1 bà mẹ nhiễm sida sẽ đối diện với lo âu và phát hoảng nhiều hơn so với thông thường. Với một vài Bước tiến đáng kể trong điều trị và dự phòng , có thể dẫn chứng rằng mẹ bầu nhiễm HIV hoàn toàn có thể sinh ra 1 đứa trẻ bình thường và mạnh mẽ nếu được trả lời , quan sát và chữa trị đúng mức.
Nâng đỡ tinh thần là 1 trong các Bước chủ yếu trong tham vấn bà mẹ bên cạnh một vài xét nghiệm và Quy trình thường quy trong nhìn có thai.
Xem thêm:
Đang xem tivi, người đàn ông bị thanh niên xông vào nhà đâm chết2 nguy hiểm cho sức khoẻ khi không đủ "yêu"
Có 0 nhận xét Đăng nhận xét